THPT Nguyễn Khuyến
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

THPT Nguyễn Khuyến

Bù Nho - Bù Gia mập - Bình Phước
 
Trang ChínhGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 Phân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc của Nguyễn Đình Chiểu (1-15)

Go down 
Tác giảThông điệp





Join date : 01/01/1970

Phân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc của Nguyễn Đình Chiểu (1-15) Empty
Bài gửiTiêu đề: Phân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc của Nguyễn Đình Chiểu (1-15)   Phân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc của Nguyễn Đình Chiểu (1-15) I_icon_minitime1/10/2012, 20:43

Đề:Phân tích bài văn tế nghĩa
sĩ cần giuộc của Nguyễn Đình
Chiểu (1-15)
Năm 1859, giặc Pháp tấn
công thành Gia Định, Nguyến
Đình Chiểu viết bài thơ “Chạy giặc”, hai câu kết nói lên mong
ước thiết tha:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu
vắng / Nỡ để dân đen mắc
nạn này?”
Và mấy năm sau, Nhà thơ viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc” - đình cao nghệ thuật
và tư tưởng trong sự nghiệp
thơ văn của ông. Có thể coi
bài văn tế là tấm lòng trung
nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đối với những nghĩa sĩ anh
hùng của nhân dân ta trong
buổi đầu chống Pháp xâm
lược. Nhà thơ mù đất Đồng
Nai đã dựng lên một “tượng
đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân
yêu nước chống ngoại xâm.
Sau khi chiếm đóng 3 tỉnh
miền Đông, giặc Pháp đánh
chiếm 3 tỉnh miền tây Nam Bộ.
Năm 1861, vào đêm 14/12, nghĩa quân đã tấn công đồn
giặc ở Cần Giuộc, thuộc tỉnh
Long An ngày nay.Trận đánh
diễn ra vô cùng ác liệt “làm
cho mã tà, ma ní hồn kinh”,
Gần 30 chiến sĩ nghĩa quân đã anh dũng hi sinh. Nguyễn
Đình Chiểu đã viết bài văn tế
này - bài ca về người anh
hùng thất thế nhưng vẫn hiên
ngang.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “tượng đài nghệ thuật”
hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc
và tính chất của tượng đài
nghệ thuật ấy: vừa hoành
tráng, hùng tráng vừa thống
thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn.
Hùng tráng ở phẩm chất anh
hùng, ở đức hi sinh quyết tử.
Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên
1 thời đại sóng gió dữ dội,
quyết liệt của đất nước và dân tộc. Hoành tráng về quy mô,
nó không chỉ khắc hoạ về 1
nghĩa quân, 1 anh hùng mà
đông đảo những người “dân
ấp dân lân mến nghĩa quân
làm quân chiêu mộ” dưới ngọn cờ “bình tây” của Trương
Công Định. Tính chất, quy mô
hùng tráng, hoành tráng ấy lại
gắn liền với bi ai đau thương
thống thiết. “Cái tượng đài
nghệ thuật” về người nông dân đánh Pháp giữa thế kỉ XIX
đã được dựng lên trong nước
mắt, trong tiếng khóc của nhà
thơ, của nhân dân và cả của
đất nước. Trong toàn bài văn
tế đặc biệt trong phân thích thực và ai vãn , ta cảm nhận
sâu sắc tính chất bi tráng này.
Mở đầu bài văn tế là 1 lời than
qua 2 câu tứ tự song hành.
Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên
thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ,
là tiếng nấc đau thương cho
thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân
trời tỏ”
Tổ quốc lâm nguy. Súng giặc nổ vang rền trời đất và quê
hương sứ sở.
“Tan chợ vưà nghe tiếng súng
Tây…” (“Chạy giặc”). Trong
cảnh nước mất nhà tan, chỉ có
nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc
cứu nước cứu nhà. Tấm lòng
yêu nước, căm thù giặc của
nhân dân, của những người
áo vải mới tỏ cùng trời đất và
ság ngời chính nghĩa. Có thể nói cặp câu tứ tự này là tư
tưởng chủ đạo của bài văn tế,
nó được khắc trên đá hoa
cương đặt ở phía trước, chính
diện của “tượng đài nghệ
thuật” ấy. Hình ảnh trung tâm của
“tượng đài nghệ thuật” “Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc” là những
chiến sĩ nghĩa quân. Nguồn
gốc của họ là nông dân nghèo
sống cuộc đời “côi cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền
lành, cần cù là chịu khó trong
làm ăn, quanh quẩn trong xóm
làng, làm bạn với con trâu,
đường cày, sá bừa, rất xa lạ
với “cung ngựa trường nhung”: “Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn; toan lo nghèo
khó
Chưa quen cung ngựa đâu tới
trường nhung; chỉ biết ruộng
trâu, ở trong làng bộ”. Họ là lớp người đông đảo,
sống gần fũi quanh ta. Quanh
năm chân lấm tay bùn với
nghề nông, “chưa hề ngó tới”
việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập
khiên, tập súng, tập mác, tập
cờ mắt chưa từng ngó”.
Thế nhưng khi đất nước quê
hương bị giặc Pháp xâm lược,
những “dân ấp, dân lân” ấy đã đứng lên “mến nghĩa làm
quân chiêu mộ”. Đánh giặc
cứu nước cứu nhà, bảo vệ “bát
cơm manh áo ở đời” là cái
nghĩa lớn mà họ “mến” là đeo
đuổi. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu cách cú
hay nhất (giản dị mà chắc
nịch) ca ngợi long yêu nước,
căm thù giặc của người nghĩa
sĩ:
“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan;
ngày xem ống khói chạy đen
sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai
bán nước, họ chỉ có 1 thái độ:
“ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có 1 chí hướng: “phen này xin ra
sức đoạn kình…, chuyến này
dốc ra tay bộ hổ”.
Hình ảnh người chiến sĩ
nghĩa quân ra trận là những
nét vẽ, nét khắc hùng tráng nhất, hoành tráng nhất trong
“tượng đài nghệ thuật” bài văn
tế. Bức tượng đài có 2 nét vẽ
tương phản đối lập: đoàn
dũng sĩ của quê hương và
giặc Pháp xâm lược. Giặc cướp được trang bị tối tân, có
“tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn
nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh
thuê “mã tà, ma ní” thiện
chiến. Trái lại, trang bị của
nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo
vải” . Vũ khí chỉ có “một ngọn
tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao
phay”, một súng hoả mai khai
hoả “bằng rơm con cúi”. Thế
mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo
kia” và “chém rớt đầu quan hai
nọ”.
“Tượng đài nghệ thuật” đã tái
hiện lại những giờ phút giao
tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng
trống kì, trống giục, đạp rào
lướt tới, coi giặc cũng như
không; nào sợ thằng Tây bắn
đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém
ngược, làm cho ma ní, mã tà
hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó
sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng
súng nổ”. Đây là những câu gối hạc tuyệt
bút. Không khí chiến trận có
tiếng trống thúc quân giục giã,
“có bọn hè trước, lũ ó sau”
vang dậy đất trời cùng tiếng
súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn
công như vũ bão, tung hoành
giữa đồn giặc: “đạp rào lướt
tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm
ngang chém ngược”, “hè
trước, ó sau”… Giọng văn hùng tráng, phép đối tài tình,
các động từ mạnh được chọn
lọc và đặt đúng chỗ… đã tô
đậm tinh thần quả cảm, vô
song của các nghĩa sĩ Cần
Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho các chiến sĩ nghĩa
quân những tình cảm đẹp
nhất: ngợi ca, khâm phục, tự
hào. Qua đó, ta thấy, trước
Nguyễn Đình Chiểu chưa có
nhà thơ nào văn nào viết về người nông dân đánh giặc hay
và sâu sắc như thế.
Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc” còn có những giọt
lệ, lời than khóc, một âm điệu
thông thiết, bi ai được thể hiện ở phần ai vãn. Nhiều nghĩa sĩ
đã ngã xuống trên chiến
trường trong tư thế người anh
hùng: “Những lăm lòng nghĩa
lâu dùng; đâu biết xác phàm
vội bỏ” Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. Một
không gian rông lớn bùi ngùi,
đau đớn:
“Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây
mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ
Trường Bình, già trẻ 2 hàng kuỵ nhỏ”.
Tiếng khóc của người mẹ già,
nỗi đau đớn của người vợ trẻ
được nói đến vô cùng xúc
động. “Hàng trăm năm sau,
chúng ta đọc Nguyễn Đình Chiểu có lúc như vẫn còn thấy
ngòi bút của nhà thơ nức nở
trên từng trang giấy” (Hoài
Thanh):
“Đau đớn bấy mẹ già ngồi
khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ
yếu chạy tìm chồng, cơn bòn
xế dật dờ trước ngõ”.
Các nghĩa sĩ đã sống anh
dũng, chết vẻ vang. Tấm
gương chiến đấu và hi sinh của họ là “tấm lòng son gửi lại
bóng trăng rằm”, đời đời bất
diệt, sáng rực mãi, trường tồn
cùng sông núi. Rất đáng tự
hào:
“Ôi! Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”
Bài học lớn nhất của người
nghĩa sĩ để lại cho đất nước
và nhân dân là bài học về
sống và chết. Sống hiên
ngang. Chết bất khuất. Tâm thế ấy đã tô đậm chất bi tráng
cho “tượng đài nghệ thuật” về
người nông dân đánh giặc:
“Sống đánh giặc, thác cũng
đánh giăc, linh hồn theo giúp
cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;…”.
Dám xả thân vì nghĩa lớn, “cây
hương nghĩa sĩ thắp thêm
thơm”, các chiến sĩ nghĩa
quân trong “Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân
ta.
Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc” khẳng định văn
chương lỗi lạc, tấm lòng yêu
thương dân mãnh liệt, thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. Đúng
là “người thư sinh dùng bút
đánh giặc” (Miên Thẩm). Một
giọng văn vừa hùng tráng, vừa
thống thiết, bi ai. Nguyễn Đình
Chiểu đã dựng lên một “tượng đài nghệ thuật” mang tính chất
bi tráng về người nông dân
yêu nước chống giặc ngoại
xâm. “Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc” là một kiệt tác trong văn
tế cổ kim của dân tộc. Nhà văn Hoài Thanh có viết: “Nhà nho
nghèo ấy đã sống cuộc sống
của quần chúng, và đã đi cùng
quần chúng phấn đấu gian
nan. Chính quần chúng cũng
cần cù, dũng cảm đã tiếp sức cho Nguyễn Đình Chiểu, cho
trí tuệ , cho tình cảm, cho lòng
tin và cả cho nghệ thuật của
Nguyên Đình Chiểu”
Về Đầu Trang Go down
 
Phân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc của Nguyễn Đình Chiểu (1-15)
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Phân tích "Câu cá mùa thu" (Thu điếu-Nguyễn Khuyến)
» dinh nghia ve cac mon hoc l nguyen khuyen - bu nho - binh phuoc
» Bài tập về nhà "phản tác dụng" - ( Trường THPT nguyễn khuyến - bù nho - bù gia mập - bình phước)
» chiệu nỗi không...
» đàn ông đàn bà (phần 2 : boy vs girl )

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
THPT Nguyễn Khuyến  :: phòng học tập - tin giáo dục :: khoa học xả hội-
Chuyển đến